Tìm kiếm
Latest topics
Kiến thức cơ bản về bệnh vẩy nến
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Kiến thức cơ bản về bệnh vẩy nến
Biểu hiện của bệnh vảy nến
Đặc điểm bệnh rất dễ nhận thấy bởi những tổn thương riêng lẻ có giới hạn rõ. Người bệnh thấy xuất hiện các đám mảng đỏ kích thước khác nhau, từ vài milimet đến vài chục centimet, hơi gồ cao, nền cứng cộm.
Vảy nhiều tầng, nhiều lớp, dễ bong, khi cạo vụn ra như bột phấn, như vết nến rơi lả tả. Vảy tái tạo rất nhanh, số lượng nhiều. Thương tổn mới xuất hiện trên các vùng bị kích thích như gãi, tiêm, mổ; kích thích lý hóa… thường xuất hiện đầu tiên ở vùng da đầu và vùng bị tỳ đè, sau vành tai, khuỷu tay, đầu gối, hông, vùng cơ quan sinh dục.
Đôi khi bệnh lan khắp cơ thể. Có khi còn gặp vảy nến ở nếp gấp hay dạng đỏ da lan tràn toàn thân và khó điều trị. Móng tay, lông mày, rốn, hậu môn cũng thường bị bệnh trong 60% các trường hợp.
Vảy nến là bệnh không lây lan (trừ khi bệnh xâm nhập xương khớp hoặc nhiễm độc), không gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe, chỉ ảnh hưởng tâm lý, buồn phiền vì da… chẳng giống ai.
Dấu hiệu bệnh vảy nến là gì?
Hồng ban giới hạn rõ rệt, có vẩy trắng như nến, có thể gây ra thành từng lớp như mica, có khi nổi dát đỏ như gọt nước, có khi to, tròn hoặc bầu dục, đường kính 2,5cm, có khi thành mảng rộng do nhiều dát kết hợp lại.
Vị trí đặc hiệu: Vùng da bị tỳ, cọ nhiều như khuỷ tay, đầu gối, mông, xương cùng, vùng mấu chuyển lớn.
Lúc đầu từng lớp vẩy bong ra như nến rồi đến màng bong là một màng rất mỏng. Khi màng đó đã được nạo đi sẽ thấy rướm máu lấm tấm, có lẫn cả tiết dịch trong giống như những giọt sương li ti, vì vậy còn được gọi là hiện tượng sương máu (phénomène de la rosée sanglante), có giá trị rất lớn để chẩn đoán.
Có trường hợp vẩy nến khu trú ở da đầu, ăn xuống rìa tóc hoặc ở lòng bàn tay, bàn chân, có khi lan ra toàn thân. Móng tay chân có thề dày, sần sùi, móng có vạch ngang, dễ gãy dưới móng có chứa bột trắng.
Nhiều trường hợp vảy nến nổi ngay trên các vết sẹo, vết sượt da, vết mổ, vết tiêm. Bệnh gây ngứa ít nhiều tuỳ từng theo từng người, tiến triển từng đợt, lúc ổn định, lúc vượng, có lúc tự nhiên khỏi. Thường hay tái phát theo mùa, có người nặng về mùa hè, có người nặng về mùa đông. Bệnh lâu ngày tính chất mùa không còn rõ rệt. Một số ít phụ nữ lúc mang thai bệnh nhẹ hoặc hết, sau sanh, da lại bị tổn thương hoặc nặng hơn.
1. Thể đỏ da: do bệnh phát triển, da toàn thân đỏ, sưng, tróc vảy, kèm phát sốt, các khớp đau, lòng bàn chân sừng hoá, móng dày lên và rụng.
2. Thể khớp: thường vảy nến tăng lan đến các khớp lớn nhỏ như khớp ngón, khớp cổ tay, cổ chân, khớp gối, nhẹ là khớp sưng, nặng thì dịch bao khớp xương huỷ hoại, khớp dị dạng.
3. Thể mụn mủ: tế bào gai bị tổn thương rõ, trên tổn thương vảy nến mọc lên những mụn mủ không có vi khuẩn, gặp nhiều ở người lớn tuổi.
Vảy nến – bệnh khó chữa, dễ tái phát
Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh này vẫn chưa được sáng tỏ. Do đó, việc dieu tri vay da còn gặp nhiều khó khăn. Các thuốc đã được sử dụng đều không mang lại hiệu quả bền vững và không ngăn được tái phát.
Ở Việt Nam, vảy nến chiếm 3-5% tổng số bệnh nhân đến khám da liễu. Bệnh biểu hiện thành chấm, vết hoặc mảng nền viêm đỏ, phủ vảy nhiều lớp, dễ bong, màu trắng đục như xà cừ, như nến. Bệnh tiến triển từng đợt, hay tái phát, có khi dai dẳng nhiều năm.
Tùy triệu chứng lâm sàng, các bác sĩ phân vảy nến thành nhiều thể: chấm, giọt, đồng tiền, mảng, đỏ da, mụn mủ, khớp… Thể chấm, giọt, đồng tiền hoặc mảng khu trú thường lành tính, không ảnh hưởng gì lớn đến sức khỏe, chỉ gây ngứa khó chịu, ảnh hưởng đến tâm lý bệnh nhân trong quan hệ gia đình, xã hội. Riêng các thể đỏ da, mụn mủ, viêm da thường kèm theo tổn thương nội tạng, tiên phát hoặc thứ phát, nếu không được điều trị, săn sóc tích cực, đúng đắn thì có thể gây chết người.
Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh vẩy nến vẫn chưa được sáng tỏ. Bệnh có thể liên quan tới nhiều yếu tố riêng rẽ hoặc phức hợp tùy từng bệnh nhân: nhiễm lạnh, nhiễm khuẩn (viêm tai mũi họng, cúm), xúc cảm thần kinh đột ngột (stress), rối loạn chuyển hóa đường, mỡ, nội tiết, dị ứng, di truyền…
Vì nguyên nhân chưa rõ ràng nên điều trị còn khó khăn. Có thể nói, hầu như tất cả các loại thuốc đều đã được sử dụng trong điều trị vảy nến. Đó là các thuốc cổ điển (asen, bismut, DDS, novocain, vitamin), hiện đại (kháng sinh, corticoid, thuốc ức chế hoặc tăng cường miễn dịch, cyclosporin, interferon, interleukin…) hoặc thuốc kết hợp các chất chống viêm, bạt sừng, tạo da (kem có salicylic, gudron, corticoid, diprosalic, betnoval…). Chúng chỉ mang lại kết quả không chắc chắn, không bền vững và đại đa số vẫn không thể ngăn ngừa được tái phát.
Phương pháp điều trị vảy nến phổ biến nhất hiện nay là PUVA (uống thuốc psoralen gây cảm ứng ánh sáng, sau đó chiếu tia cực tím sóng dài UVA), hiệu quản có thể đạt 80-90%, nhưng tỷ lệ tái phát 40% hoặc hơn.
Kể cả các phương pháp dùng thuốc toàn thân hiện đại và phương pháp PUVA (đơn thuần hoặc kết hợp với vitamin A) đều có khả năng gây tác dụng phụ, có khi nghiêm trọng: tổn thương gan, thận, máu, rối loạn miễn dịch, ung thư da… Có thể nói, hiện có loại thuốc Tây y nào là lý tưởng, đặc hiệu đối với vảy nến.
Các đơn thuốc Đông y cũng cho kết quả hạn chế (70-75% trường hợp bệnh thể nhẹ được làm sạch tổn thương, không ngăn ngừa được tái phát).
Vì vậy, đối với bệnh nhân vảy nến, nhất là các thể rộng và nặng, thầy thuốc phải động viên họ kiên trì điều trị, thậm chí chấp nhận “chung sống hòa bình với bệnh”. Sự lo lắng, bi quan, căng thẳng thần kinh vì nó càng làm bệnh thêm phức tạp, hạn chế kết quả điều trị.
Bệnh nhân cần tránh chà xát mạnh lên tổn thương khi tắm rửa và bôi thuốc (có thể tắm bằng nước ấm, xà phòng, giúp bong vảy). Không tự ý dùng thuốc để đề phòng viêm da, kích ứng. Các thuốc như mỡ salicylic, crisofamic, gudron… nếu bôi rộng có thể gây nhiễm độc. Còn các mỡ corticoid, flucinar, xinala… ban đầu có thể cho kết quả tốt nhưng nếu lạm dụng thì sẽ gây tái phát nặng hơn. Việc bôi corticoid rộng, lâu ngày có thể gây tác dụng phụ giống như khi dùng đường toàn thân (teo da, trứng cá, phị mặt, xốp xương, rối loạn điện giải). Cũng không nên tùy tiện tiêm thuốc này để tránh các tai biến.
Ngoài ra, người bị vảy nến nên tránh dùng các chất kích thích, hạn chế rượu, cà phê, thuốc lá. Việc sinh hoạt điều độ, lao động, thể dục thể thao, tắm biển, tắm nắng thích hợp… rất có lợi cho điều trị.
Đặc điểm bệnh rất dễ nhận thấy bởi những tổn thương riêng lẻ có giới hạn rõ. Người bệnh thấy xuất hiện các đám mảng đỏ kích thước khác nhau, từ vài milimet đến vài chục centimet, hơi gồ cao, nền cứng cộm.
Vảy nhiều tầng, nhiều lớp, dễ bong, khi cạo vụn ra như bột phấn, như vết nến rơi lả tả. Vảy tái tạo rất nhanh, số lượng nhiều. Thương tổn mới xuất hiện trên các vùng bị kích thích như gãi, tiêm, mổ; kích thích lý hóa… thường xuất hiện đầu tiên ở vùng da đầu và vùng bị tỳ đè, sau vành tai, khuỷu tay, đầu gối, hông, vùng cơ quan sinh dục.
Đôi khi bệnh lan khắp cơ thể. Có khi còn gặp vảy nến ở nếp gấp hay dạng đỏ da lan tràn toàn thân và khó điều trị. Móng tay, lông mày, rốn, hậu môn cũng thường bị bệnh trong 60% các trường hợp.
Vảy nến là bệnh không lây lan (trừ khi bệnh xâm nhập xương khớp hoặc nhiễm độc), không gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe, chỉ ảnh hưởng tâm lý, buồn phiền vì da… chẳng giống ai.
Dấu hiệu bệnh vảy nến là gì?
Hồng ban giới hạn rõ rệt, có vẩy trắng như nến, có thể gây ra thành từng lớp như mica, có khi nổi dát đỏ như gọt nước, có khi to, tròn hoặc bầu dục, đường kính 2,5cm, có khi thành mảng rộng do nhiều dát kết hợp lại.
Vị trí đặc hiệu: Vùng da bị tỳ, cọ nhiều như khuỷ tay, đầu gối, mông, xương cùng, vùng mấu chuyển lớn.
Lúc đầu từng lớp vẩy bong ra như nến rồi đến màng bong là một màng rất mỏng. Khi màng đó đã được nạo đi sẽ thấy rướm máu lấm tấm, có lẫn cả tiết dịch trong giống như những giọt sương li ti, vì vậy còn được gọi là hiện tượng sương máu (phénomène de la rosée sanglante), có giá trị rất lớn để chẩn đoán.
Có trường hợp vẩy nến khu trú ở da đầu, ăn xuống rìa tóc hoặc ở lòng bàn tay, bàn chân, có khi lan ra toàn thân. Móng tay chân có thề dày, sần sùi, móng có vạch ngang, dễ gãy dưới móng có chứa bột trắng.
Nhiều trường hợp vảy nến nổi ngay trên các vết sẹo, vết sượt da, vết mổ, vết tiêm. Bệnh gây ngứa ít nhiều tuỳ từng theo từng người, tiến triển từng đợt, lúc ổn định, lúc vượng, có lúc tự nhiên khỏi. Thường hay tái phát theo mùa, có người nặng về mùa hè, có người nặng về mùa đông. Bệnh lâu ngày tính chất mùa không còn rõ rệt. Một số ít phụ nữ lúc mang thai bệnh nhẹ hoặc hết, sau sanh, da lại bị tổn thương hoặc nặng hơn.
1. Thể đỏ da: do bệnh phát triển, da toàn thân đỏ, sưng, tróc vảy, kèm phát sốt, các khớp đau, lòng bàn chân sừng hoá, móng dày lên và rụng.
2. Thể khớp: thường vảy nến tăng lan đến các khớp lớn nhỏ như khớp ngón, khớp cổ tay, cổ chân, khớp gối, nhẹ là khớp sưng, nặng thì dịch bao khớp xương huỷ hoại, khớp dị dạng.
3. Thể mụn mủ: tế bào gai bị tổn thương rõ, trên tổn thương vảy nến mọc lên những mụn mủ không có vi khuẩn, gặp nhiều ở người lớn tuổi.
Vảy nến – bệnh khó chữa, dễ tái phát
Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh này vẫn chưa được sáng tỏ. Do đó, việc dieu tri vay da còn gặp nhiều khó khăn. Các thuốc đã được sử dụng đều không mang lại hiệu quả bền vững và không ngăn được tái phát.
Ở Việt Nam, vảy nến chiếm 3-5% tổng số bệnh nhân đến khám da liễu. Bệnh biểu hiện thành chấm, vết hoặc mảng nền viêm đỏ, phủ vảy nhiều lớp, dễ bong, màu trắng đục như xà cừ, như nến. Bệnh tiến triển từng đợt, hay tái phát, có khi dai dẳng nhiều năm.
Tùy triệu chứng lâm sàng, các bác sĩ phân vảy nến thành nhiều thể: chấm, giọt, đồng tiền, mảng, đỏ da, mụn mủ, khớp… Thể chấm, giọt, đồng tiền hoặc mảng khu trú thường lành tính, không ảnh hưởng gì lớn đến sức khỏe, chỉ gây ngứa khó chịu, ảnh hưởng đến tâm lý bệnh nhân trong quan hệ gia đình, xã hội. Riêng các thể đỏ da, mụn mủ, viêm da thường kèm theo tổn thương nội tạng, tiên phát hoặc thứ phát, nếu không được điều trị, săn sóc tích cực, đúng đắn thì có thể gây chết người.
Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh vẩy nến vẫn chưa được sáng tỏ. Bệnh có thể liên quan tới nhiều yếu tố riêng rẽ hoặc phức hợp tùy từng bệnh nhân: nhiễm lạnh, nhiễm khuẩn (viêm tai mũi họng, cúm), xúc cảm thần kinh đột ngột (stress), rối loạn chuyển hóa đường, mỡ, nội tiết, dị ứng, di truyền…
Vì nguyên nhân chưa rõ ràng nên điều trị còn khó khăn. Có thể nói, hầu như tất cả các loại thuốc đều đã được sử dụng trong điều trị vảy nến. Đó là các thuốc cổ điển (asen, bismut, DDS, novocain, vitamin), hiện đại (kháng sinh, corticoid, thuốc ức chế hoặc tăng cường miễn dịch, cyclosporin, interferon, interleukin…) hoặc thuốc kết hợp các chất chống viêm, bạt sừng, tạo da (kem có salicylic, gudron, corticoid, diprosalic, betnoval…). Chúng chỉ mang lại kết quả không chắc chắn, không bền vững và đại đa số vẫn không thể ngăn ngừa được tái phát.
Phương pháp điều trị vảy nến phổ biến nhất hiện nay là PUVA (uống thuốc psoralen gây cảm ứng ánh sáng, sau đó chiếu tia cực tím sóng dài UVA), hiệu quản có thể đạt 80-90%, nhưng tỷ lệ tái phát 40% hoặc hơn.
Kể cả các phương pháp dùng thuốc toàn thân hiện đại và phương pháp PUVA (đơn thuần hoặc kết hợp với vitamin A) đều có khả năng gây tác dụng phụ, có khi nghiêm trọng: tổn thương gan, thận, máu, rối loạn miễn dịch, ung thư da… Có thể nói, hiện có loại thuốc Tây y nào là lý tưởng, đặc hiệu đối với vảy nến.
Các đơn thuốc Đông y cũng cho kết quả hạn chế (70-75% trường hợp bệnh thể nhẹ được làm sạch tổn thương, không ngăn ngừa được tái phát).
Vì vậy, đối với bệnh nhân vảy nến, nhất là các thể rộng và nặng, thầy thuốc phải động viên họ kiên trì điều trị, thậm chí chấp nhận “chung sống hòa bình với bệnh”. Sự lo lắng, bi quan, căng thẳng thần kinh vì nó càng làm bệnh thêm phức tạp, hạn chế kết quả điều trị.
Bệnh nhân cần tránh chà xát mạnh lên tổn thương khi tắm rửa và bôi thuốc (có thể tắm bằng nước ấm, xà phòng, giúp bong vảy). Không tự ý dùng thuốc để đề phòng viêm da, kích ứng. Các thuốc như mỡ salicylic, crisofamic, gudron… nếu bôi rộng có thể gây nhiễm độc. Còn các mỡ corticoid, flucinar, xinala… ban đầu có thể cho kết quả tốt nhưng nếu lạm dụng thì sẽ gây tái phát nặng hơn. Việc bôi corticoid rộng, lâu ngày có thể gây tác dụng phụ giống như khi dùng đường toàn thân (teo da, trứng cá, phị mặt, xốp xương, rối loạn điện giải). Cũng không nên tùy tiện tiêm thuốc này để tránh các tai biến.
Ngoài ra, người bị vảy nến nên tránh dùng các chất kích thích, hạn chế rượu, cà phê, thuốc lá. Việc sinh hoạt điều độ, lao động, thể dục thể thao, tắm biển, tắm nắng thích hợp… rất có lợi cho điều trị.
lazycat9x- Thành viên tích cực
- Tổng số bài gửi : 100
Join date : 13/02/2014
Similar topics
» Thực phẩm tốt cho bệnh đau lưng
» Những loại thực phẩm tốt cho bệnh đau lưng
» 10 sự kiện IT nổi bật trong thập niên vừa qua
» Thận trọng với bệnh sỏi thận
» 6 tác hại của bệnh thiếu ngủ
» Những loại thực phẩm tốt cho bệnh đau lưng
» 10 sự kiện IT nổi bật trong thập niên vừa qua
» Thận trọng với bệnh sỏi thận
» 6 tác hại của bệnh thiếu ngủ
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|
Thu 9 Jul 2015 - 23:36 by Themascot
» Mở bán Chung cư Eco Green City mặt đường Nguyễn Xiển
Sun 31 May 2015 - 9:17 by thuyhuong9o
» Mở bán đợt 1 Chung cư Eco Green City mặt đường Nguyễn Xiển
Sun 31 May 2015 - 9:17 by thuyhuong9o
» Củ mài tốt cho sức khỏe suy thận
Fri 22 Aug 2014 - 15:28 by lazycat9x
» Phòng ngừa đau lưng cho dân văn phòng
Thu 21 Aug 2014 - 15:33 by lazycat9x
» Chế độ ăn uống giúp dưỡng thận
Wed 20 Aug 2014 - 15:33 by lazycat9x
» Phương pháp chữa vô sinh ở nữ giới
Tue 19 Aug 2014 - 15:25 by lazycat9x
» Thoát vị đĩa đệm cột sống và những di chứng
Mon 18 Aug 2014 - 15:41 by lazycat9x
» Thực phẩm giúp giảm đau bụng kinh hiệu quả
Tue 12 Aug 2014 - 15:32 by lazycat9x